Cổ phiếu phổ thông là một chứng khoán đại diện cho quyền sở hữu trong một công ty. Người nắm giữ cổ phiếu phổ thông được bầu hội đồng quản trị và biểu quyết các chính sách của công ty. Hình thức sở hữu vốn cổ phần này thường mang lại tỷ suất sinh lợi cao hơn trong dài hạn. Tuy nhiên, trong trường hợp thanh lý, cổ đông phổ thông chỉ có quyền đối với tài sản của công ty sau khi trái chủ, cổ đông ưu đãi và những người thành lập khác đã được thanh toán đầy đủ. Cổ phiếu phổ thông được báo cáo trong phần vốn chủ sở hữu của cổ đông trên bảng cân đối kế toán của công ty.
Nội dung chính
- Cổ phiếu phổ thông là một chứng khoán đại diện cho quyền sở hữu trong một công ty.
- Trong một đợt thanh lý, các cổ đông phổ thông nhận được bất kỳ tài sản nào còn lại sau khi các chủ nợ, trái chủ và cổ đông ưu đãi được thanh toán.
- Có nhiều loại cổ phiếu khác nhau được giao dịch trên thị trường. Ví dụ, cổ phiếu giá trị là cổ phiếu có giá thấp hơn so với các nguyên tắc cơ bản của chúng. Cổ phiếu tăng trưởng là những công ty có xu hướng tăng giá trị do thu nhập ngày càng tăng.
- Nhà đầu tư nên đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình bằng cách bỏ tiền vào các chứng khoán khác nhau dựa trên mức độ ưa thích rủi ro của họ.
Sự khác biệt giữa Cổ phiếu Ưu đãi và Cổ phiếu Phổ thông là gì?
Tìm hiểu về cổ phiếu phổ thông
Với cổ phiếu phổ thông, nếu một công ty bị phá sản, các cổ đông phổ thông sẽ không nhận được tiền cho đến khi các chủ nợ, trái chủ và cổ đông ưu đãi đã nhận được cổ phần tương ứng của họ. Điều này làm cho cổ phiếu phổ thông rủi ro hơn so với nợ hoặc cổ phiếu ưu đãi. Ưu điểm của cổ phiếu phổ thông là chúng thường hoạt động tốt hơn trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi trong thời gian dài. Nhiều công ty phát hành cả ba loại chứng khoán. Ví dụ, Wells Fargo & Company có một số trái phiếu có sẵn trên thị trường thứ cấp. Nó cũng có cổ phiếu ưu đãi, chẳng hạn như Series L (NYSE: WFC-L) và cổ phiếu phổ thông (NYSE: WFC).
Cổ phiếu phổ thông lần đầu tiên được thành lập vào năm 1602 bởi Công ty Đông Ấn Hà Lan và được giới thiệu trên Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam. Các cổ phiếu lớn hơn có trụ sở tại Hoa Kỳ được giao dịch trên sàn giao dịch công khai, chẳng hạn như Sở giao dịch chứng khoán New York (NYSE) hoặc NASDAQ. Tính đến năm 2019, công ty đầu tiên có 2800 cổ phiếu được niêm yết trên sàn, trong khi công ty thứ hai có 3300 cổ phiếu được niêm yết. NYSE có vốn hóa thị trường là 28,5 nghìn tỷ đô la vào tháng 6 năm 2018, trở thành sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới tính theo vốn hóa thị trường.
Ngoài ra còn có một số sàn giao dịch quốc tế cho cổ phiếu nước ngoài, chẳng hạn như Sở giao dịch chứng khoán London và Sở giao dịch chứng khoán Tokyo. Các công ty có quy mô nhỏ hơn và không thể đáp ứng các yêu cầu niêm yết của sàn giao dịch được coi là chưa niêm yết. Các cổ phiếu chưa niêm yết này được giao dịch trên Bảng tin không kê đơn (OTCBB) hoặc các pink sheets.
Đối với một công ty, để phát hành cổ phiếu, nó phải bắt đầu bằng việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO). IPO là một cách tuyệt vời để một công ty đang tìm kiếm thêm vốn, để mở rộng. Để bắt đầu quá trình IPO, một công ty phải làm việc với một công ty ngân hàng đầu tư bảo lãnh phát hành, giúp xác định cả loại và giá cả của cổ phiếu. Sau khi giai đoạn IPO hoàn thành, công chúng được phép mua cổ phiếu mới trên thị trường thứ cấp.
Cân nhắc đặc biệt
Cổ phiếu nên được coi là một phần quan trọng trong danh mục đầu tư của bất kỳ nhà đầu tư nào. Chúng chịu nhiều rủi ro hơn khi so sánh với các CD, cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu. Tuy nhiên, với rủi ro lớn hơn thì khả năng nhận được phần thưởng cũng lớn hơn. Về dài hạn, cổ phiếu có xu hướng tốt hơn các khoản đầu tư khác nhưng dễ bị biến động hơn trong ngắn hạn.
Ngoài ra còn có một số loại cổ phiếu. Cổ phiếu tăng trưởng là những công ty có xu hướng tăng giá trị do thu nhập ngày càng tăng. Cổ phiếu giá trị là những công ty có giá thấp hơn so với các nguyên tắc cơ bản của chúng. Cổ phiếu giá trị cung cấp một cổ tức, không giống như cổ phiếu tăng trưởng. Cổ phiếu được phân loại theo vốn hóa thị trường – lớn, trung bình hoặc nhỏ. Các cổ phiếu vốn hóa lớn được giao dịch nhiều hơn và nói chung là dấu hiệu cho thấy một công ty ổn định hơn. Các cổ phiếu vốn hóa nhỏ thường là các công ty mới hơn đang muốn phát triển; vì vậy, chúng có thể dễ bay hơi hơn nhiều so với các giá trị vốn hóa lớn.